
Trao đổi với Đài Hà Nội, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng nêu quan điểm cả nước có thể sắp xếp lại còn khoảng 30 đơn vị cấp tỉnh, cùng 6 thành phố trực thuộc Trung ương. Theo ông Phúc, số đơn vị cấp tỉnh này đảm bảo bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xét trong điều kiện phát triển đất nước hiện nay và kinh nghiệm từ những lần tách nhập tỉnh trong quá khứ.
Tuần qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận 127 giao Đảng ủy Chính phủ chủ trì nghiên cứu định hướng sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị cấp xã, thực hiện mô hình địa phương hai cấp (tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể) bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
“Xác định quyết tâm chính trị cao nhất, triển khai thực hiện theo phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng” để hoàn thành công việc với khối lượng rất lớn, đòi hỏi cao về chất lượng, tiến độ để trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào trung tuần tháng 4/2025”, kết luận của Trung ương nêu.
Xung quanh việc thực hiện kết luận 127 của Trung ương, Đài Hà Nội thực hiện tuyến bài “Nhập tỉnh, bỏ huyện để mở rộng không gian phát triển” với nhiều ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, chuyên gia để làm rõ cơ sở khoa học cho quyết sách mang tính lịch sử này.
Trao đổi với Đài Hà Nội, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng nêu quan điểm cả nước có thể sắp xếp lại còn khoảng 30 đơn vị cấp tỉnh, cùng 6 thành phố trực thuộc Trung ương. Theo ông Phúc, số đơn vị cấp tỉnh này đảm bảo bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xét trong điều kiện phát triển đất nước hiện nay và kinh nghiệm từ những lần tách nhập tỉnh trong quá khứ.
Phóng viên: Thưa PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư vừa ban hành Kết luận 127 giao Đảng ủy Chính phủ chủ trì nghiên cứu định hướng sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh. Ông đánh giá như thế nào về những lần chúng ta tách – nhập các tỉnh thành trước đây?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Trong lịch sử Việt Nam có nhiều cách gọi tỉnh. Trong thời Lý, tỉnh được gọi là lộ, còn vào thời Lê gọi là đạo, đến triều Nguyễn thì mới chính thức gọi là tỉnh.
Năm 1831, Vua Minh Mạng thực hiện cải cách, chia đất nước thành 31 đơn vị hành chính, gồm 30 tỉnh và một phủ trực thuộc đóng ở kinh thành Huế. Đến khi Pháp đô hộ thì lại tách nhỏ các tỉnh ra để dễ cai trị. Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Đảng và Chính phủ cũng thấy rằng các tỉnh ở miền Bắc nhỏ quá nên lại tiến hành hợp nhất, ví dụ: Hưng Yên nhập với Hải Dương thành Hải Hưng; Phú Thọ nhập với Vĩnh Phúc thành Vĩnh Phú; Bắc Ninh nhập với Bắc Giang thành Hà Bắc; Hà Nam nhập Nam Định thành Hà Nam, rồi thêm Ninh Bình thì thành tỉnh Hà Nam Ninh. Hầu hết các tỉnh miền Bắc đều nhập lại để phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, chúng ta tiếp tục chủ trương hợp nhất các tỉnh ở phía Nam, cả nước còn 38 đơn vị hành chính địa phương. Như vậy, tôi cho rằng việc sáp nhập các đơn vị hành chính của chúng ta hiện nay là cần thiết để có những đơn vị hành chính địa phương đủ tầm phát triển mọi mặt, nhất là phải đảm bảo quy mô dân số thì mới phát triển được. Thường lúc chúng ta nhập lại thì các tỉnh đều khoảng gần 2 triệu dân với diện tích tự nhiên, kết cấu hạ tầng gắn với yêu cầu quốc phòng, an ninh.
“Việc hợp nhất các tỉnh trước đây có tác dụng nhất định. Nhưng đến khi bước vào thời đổi mới thì các tỉnh hợp nhất lại “bung” ra, bởi cần gọn nhẹ để tiếp cận nhanh với kinh tế thị trường, thúc đẩy sự năng động của địa phương. Ngoài ra, các địa phương cũng có “nhu cầu tình cảm”, tức là muốn tái lập lại tỉnh của mình. Vì thế đầu những năm 1990, Trung ương lại đồng ý cho các tỉnh tái lập. Các tỉnh cũ đấy gọi là tái lập chứ không gọi là tách ra”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng.
Ví dụ, Hải Hưng giờ lại thành Hưng Yên, Hải Dương; Vĩnh Phú thì lại thành Phú Thọ, Vĩnh Phúc… Các tỉnh trong Nam cũng như thế, thành ra đến cuối những năm 90, chúng ta có 64 tỉnh, thành. Đến năm 2008, Hà Tây nhập về Hà Nội thì cả nước còn 63 tỉnh, thành và đến nay có 6 thành phố trực thuộc Trung ương.
Từ góc độ nghiên cứu, tôi cho rằng nên thu gọn lại bộ máy nhà nước địa phương, các đơn vị hành chính địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh.
Phóng viên: Vậy theo ông, nếu sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, số tỉnh thành còn lại bao nhiêu thì hợp lý?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Tôi cho rằng, chỉ độ khoảng 30 đơn vị tỉnh thành là hợp lý, tức là trở lại như năm 1976. Bây giờ, chúng ta có 6 thành phố trực thuộc Trung ương rồi, thế độ khoảng khoảng 30 tỉnh nữa là vừa, với các tiêu chí nhất định về dân số và diện tích tự nhiên.
“Tôi ví dụ tỉnh Sơn La (dân số hơn 1,3 triệu; diện tích 14.125 km²) có diện tích gấp nhiều lần tỉnh Thái Bình (dân số hơn 1,8 triệu; diện tích 1.585 km²), thế nhưng dân số thì lại rất ít. Có rất nhiều ví dụ như vậy nên việc sắp xếp lại các tỉnh thành phải làm sao hài hòa được chỉ số diện tích tự nhiên và dân số. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải tính đến hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, văn hóa, an ninh – quốc phòng”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng.
Tôi nghĩ việc sắp xếp chắc chắn được tính toán dựa trên cơ sở khoa học để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, chứ không thể cảm tính thích nhập chỗ này, chỗ kia.
Sáp nhập lại như thế mới có điều kiện để đưa đất nước vào kỷ nguyên mới vươn mình. Muốn “vươn mình” phải có những cái điều kiện nhất định, bộ máy hành chính ở địa phương cũng cần phải như thế. Trung ương đã sắp xếp còn 14 bộ và 3 cơ quan ngang bộ, các ban của Đảng cũng đã sắp xếp lại rồi. Cấp Trung ương như thế là ổn, còn bây giờ cấp địa phương cũng phải tinh gọn lại.
Phóng viên: Thưa ông, Trung ương cũng chủ trương bỏ cấp huyện. Ông đánh giá thế nào về quyết sách này trong bối cảnh chúng ta dự kiến sắp xếp, sáp nhập các tỉnh?
“Quả thật, cấp huyện đã tồn tại khá lâu trong lịch sử. Thời phong kiến, ở đồng bằng gọi là huyện còn ở miền núi gọi là “châu”. Ví dụ: Mộc Châu, Yên Châu, Châu Nguyên Bình; hoặc có nơi gọi là “phủ”, Điện Biên Phủ. Cấp huyện tồn tại lâu nhưng thực tế tôi nghiên cứu thì thấy rằng, cấp này cũng không phát huy được nhiều vai trò mà dần trở thành một tổ chức có tính chất trung gian nhiều hơn giữa cấp tỉnh với cơ sở. Do vậy, bỏ cấp huyện là cần thiết”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng.
Ảnh minh hoạ: Thị xã Đông Triều.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Trung Quốc có hơn 1,4 tỷ dân nhưng chỉ có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh thành, khu tự trị và đặc khu hành chính). Do vậy, chủ trương nhập các tỉnh lại là hết sức kịp thời, cần thiết, đúng thời cơ để tạo ra những tiền đề và điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế – xã hội. Bộ máy quá cồng kềnh và đội ngũ quá đông. Tôi chưa tính được chính xác nhưng một tỉnh thì biên chế cũng lên đến hàng nghìn người, xuống cấp huyện thì cũng mấy trăm chứ không ít đâu.
Ngày xưa, đứng đầu tỉnh là tổng đốc hoặc tuần phủ, tỉnh lớn được gọi là tổng đốc. Đứng đầu Nam Định, Nghệ An là tổng đốc, trong khi những tỉnh nhỏ Thái Bình, Bắc Ninh gọi là tuần phủ. Một bộ máy ở tỉnh đó chỉ độ vài chục người thôi, thế rồi độ vài chục người trực tiếp giúp ông tổng đốc điều hành.
Một góc thành phố Bắc Ninh – tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Báo Tiền phong.
Phóng viên: Vậy làm thế nào để vận hành bộ máy hành chính hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả khi chúng ta tiến hành sáp nhập các tỉnh thành đồng thời đồng thời với việc bỏ cấp huyện, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Theo tôi, cái quan trọng nhất bây giờ là cả Trung ương và địa phương phải tìm ra được mô hình tổ chức phù hợp. Nhập vào thì các tỉnh sẽ lớn song phải có mô hình hoàn chỉnh, phù hợp để hoạt động hiệu quả.
Thứ hai là phải chọn được người tài cho bộ máy, nếu chọn sai cán bộ thì hỏng, đừng để người tốt, người giỏi lại ra khỏi bộ máy, còn người kém thì ở lại. Lựa chọn cán bộ phải hết sức nghiêm ngặt, đúng người tài, đức và có trách nhiệm thật sự trong bộ máy.
Thứ ba là khả năng ứng dụng khoa học – công nghệ vào điều hành, quản lý, vận hành bộ máy. Từ bộ máy cho đến cán bộ phải có khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ tốt nhất theo tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.
Nếu kết hợp chặt chẽ được cả ba yếu tố trên thì tôi tin rằng chúng ta sẽ có một bộ máy hoàn hảo. Ban đầu có thể chưa hoàn hảo ngay nhưng dần điều chỉnh cho phù hợp. Cho nên phương châm “vừa chạy, vừa xếp hàng” chính là thế đấy, tức là phải điều chỉnh chứ không hoàn chỉnh ngay được đâu.
Phóng viên: Chúng ta đã trải qua nhiều đợt tách – nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh. Vậy theo ông, đâu là bài học rút ra từ trong quá khứ để vận dụng vào hiện tại?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Bài học lớn nhất luôn xuất phát từ thực tiễn thực tiễn cuộc sống. Phải xem xét chính trị, kinh tế – xã hội, rồi các giá trị văn hóa, đối ngoại – hội nhập đang đặt ra những vấn đề gì, từ đó lựa chọn được một bộ máy hành chính Nhà nước, một hệ thống chính trị hoàn thiện nhất, tối ưu nhất.
Diện tích, cương vực đất nước mình từ địa đầu Đồng Văn (Hà Giang) đến mũi Cà Mau như bây giờ không có kém và cũng không có hơn đâu. Thế nhưng Vua Minh Mạng xuất phát từ yêu cầu chỉ cần những cần thiết như thế thôi. Tôi ví dụ như Nam Kỳ lúc đó có sáu tỉnh thôi nên có câu “Nam Kỳ lục tỉnh”.
Thế nên, tôi cho rằng, cách chia tỉnh dưới thời Vua Minh Mạng là rất khoa học và đáp ứng đòi hỏi thực tiễn. Lúc đó, dân mình cũng chưa đông lắm, khoảng 15 triệu. Bây giờ, chúng ta có hơn 100 triệu dân, thế thì luôn phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, đời sống dân cư để sắp xếp, điều chỉnh. Ngoài ra, cũng dựa vào liên kết, giao lưu giữa các vùng miền để chọn ra mô hình phù hợp.
“Chúng ta hiện nay có đầy đủ phương tiện giao thông, đi lại thuận lợi, nền tảng công nghệ thông tin hiện đại nên việc liên kết các vùng miền rất thuận lợi. Do vậy, không thể chia tách các tỉnh ra quá nhỏ, không thể để các tỉnh chỉ vài trăm nghìn dân, rồi đi xe có khi từ đầu đến cuối tỉnh chỉ hết hơn một tiếng đồng hồ. Xuất phát từ thực tiễn như thế nên việc sáp nhập các tỉnh là tất yếu. Đó là bài học quan trọng nhất trong lịch sử”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng.
Như hiện nay, chúng ta có hai thành phố có quy mô dân số lớn là Hà Nội và TP.HCM, khoảng 8-9 triệu dân. Đây là quy mô dân số cần thiết để hình thành nên trung tâm kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa của cả nước.
Việc sáp nhập Hà Tây và Hà Nội trước đây (năm 2008) như vậy là cần thiết. Việc sáp nhập, hợp nhất các tỉnh trở thành một tỉnh hay thành phố lớn, một trung tâm lớn cũng cần phải gắn với thúc đẩy đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng. Ví dụ như Hà Nội phải lấy cái đô thị cũ, thúc đẩy vùng Hà Tây cũ lên để xây dựng cơ ngơi khu công nghiệp công nghiệp, hình thành trung tâm kinh tế, khoa học công nghệ lớn không những của Thủ đô mà còn của cả nước.
Nhìn về hình thức sau khi sáp nhập, dân số và diện tích tăng lên nhưng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược đô thị hóa, chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Có như vậy, Thủ đô không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm kinh tế, trung tâm khoa học công nghệ của cả nước.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
(Theo Hà Nội Mới)
https://hanoionline.vn/hop-nhat-con-bao-nhieu-tinh-thanh-312921.htm